Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau trong chương Đất nước (trích từ sử thi “Mặt trận khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm:
“Vợ nhớ chồng cũng góp nước núi Vọng Phu
Cuộc sống đã biến những ngọn núi và dòng sông của chúng tôi.”
Bài giảng: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) – Cô Nguyễn Ngọc Anh (GV )
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sử thi “Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm xuất sắc, mang vẻ đẹp độc đáo của ông, được sáng tác năm 1971 tại núi rừng Chiến khu Trị – Thiên. Bài “Đất nước” là chương V của sử thi này. Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo những chất liệu – chất liệu thi ca từ tục ngữ, ca dao, truyện cổ tích đến phong tục tập quán, ngôn ngữ… của văn hóa dân tộc để khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, về một Đất Nước có cội nguồn lâu đời, một Đất Nước của Nhân dân muôn đời.
Bài thơ 12 câu này trích từ phần II của bài “Đất Nước” ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta. Câu thơ mở rộng tới 13, 14, 15 chữ mà vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu nhạc điệu và nhạc điệu gợi cảm:
“Vợ nhớ chồng cũng góp núi Vọng Phu cho nước
…
Cuộc sống đã biến những ngọn núi và dòng sông của chúng tôi.”
Tám câu thơ đầu nói về hình ảnh Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một đất nước hùng vĩ. Khắp nơi trên đất nước ta đâu đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi non ấy, đảo ấy là bởi “những người vợ nhớ chồng”, hay những “đôi lứa yêu nhau” đã “góp phần”, đã “góp phần” làm đẹp, tô điểm cho đất nước:
“Vợ nhớ chồng cũng góp nước núi Vọng Phu
Đôi lứa yêu nhau góp hòn Trống Mái.
núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,… Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là thắng cảnh thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Nếu vợ “nhớ chồng” thì vợ chồng “yêu nhau” chỉ để “góp nước”, chỉ để “góp” núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy mà thôi. Nếu như tình yêu đôi lứa khăng khít, tình vợ chồng thủy chung thì Đất nước có được hình ảnh kì thú ấy, tác giả đã vượt ra khỏi danh phận tầm thường để có một cách nhìn, một cách thể hiện mới, nhân văn.
Hai câu tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp của đất nước về mặt lịch sử và truyền thống. “Gót ngựa của Thánh Gióng” đã “để lại” cho nước ta biết bao ao hồ ở vùng Hà Bắc ngày nay! 99 ngọn núi Voi ở Phong Châu quy tụ, chung tay “góp công dựng nước các Vua Hùng”. Các điệp ngữ: “đi qua… bỏ lại”, “góp công xây dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, khí phách anh hùng và khối đại đoàn kết toàn dân. của nhân dân ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước:
“Vó ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm
Chín mươi chín con voi góp công dựng nước các Vua Hùng”.
Đất nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có dòng sông Mã với “thác trắng bờm”. Và còn có Cửu Long Giang dáng thơ, ôm ấp vẻ đẹp huyền thoại:
“Những con rồng nằm im dưới dòng sông xanh thẳm”.
Con rồng đã nằm im lìm từ bao đời nay mà phương Nam yêu quý, ấp ủ từ lâu với một “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều phù sa nước ngọt, nhiều cá tôm, biển cả bao la của lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ đã đi qua vẻ đẹp của dòng sông Chín Rồng để ca ngợi gấm vóc, người Việt Nam rất tài hoa?
Quảng Nam, Quảng Ngãi là quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…, có núi Ân, có sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Nhìn Núi Bút Non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói đến “cái tài của người tài” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và sự tôn sư trọng đạo của nhân dân:
“Người học trò nghèo đóng góp cho Tổ quốc Cây bút còn trẻ”.
“Nghèo” mà vẫn “góp” nước ta, tuy núi nhưng không Nghiền, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Nghèo về vật chất nhưng giàu trí tuệ và tài năng.
Hạ Long trở thành một kỳ quan, một thắng cảnh là nhờ “con cóc, con gà đồng quê”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… Ở phương Nam xa xôi của Tổ quốc là do “ai người góp tên”, bằng mồ hôi, xương máu. , và máu lên rừng, lấn biển, đào kênh, bắt cá sấu, cọp… làm nên? Nhà thơ đã có cách nói dung dị là ca ngợi đức tính cần cù, cần cù, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định sức dân vô cùng lớn, người chủ đã “làm nên”. Đất nước vĩnh cửu”:
“Cóc, gà quê hương chung sức góp công cho TP Hạ Long chiến thắng”
Những người góp tên ông Đốc, ông Bà Đen, bà Điểm”.
Tám câu thơ với nhiều địa danh, cổ tích được nhà thơ nhắc đến thể hiện niềm tự hào, biết ơn Đất nước, Nhân dân. Các văn bản thơ – tranh ảnh: vợ chồng, đôi giày, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, cậu học trò nghèo, con cóc và con gà, con người… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm Ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn chung thủy, trí tuệ và tài năng, cần cù và dũng cảm, … của dân tộc ta qua chiều dài lịch sử. Chính những con người vĩ đại đã “góp công”, “góp công”, “để lại”, “góp công”, “góp công”, “góp công”,… làm cho đất nước ngày một giàu đẹp hơn. . Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp công, góp sức…) nhiều nghĩa mới, nhiều sắc thái biểu cảm với nhiều liên tưởng nhân văn. Như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
“Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi sáng
Nhìn thấy hàng ngàn ngọn núi và hàng trăm dòng sông đẹp.”
(“Chim bay trăm lần”)
Bốn dòng thơ cuối, giọng thơ vang lên thiết tha, ngọt ngào. Từ ngôn từ cụ thể, chất thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chỉnh thể kết hợp hài hòa với sự trữ tình đằm thắm:
“Và ở khắp mọi nơi trên cánh đồng và gò đất
Không một hình hài, một ước muốn, một lối sống
Đất nước ơi bốn ngàn năm đâu đâu cũng thấy
Những cuộc đời đã biến núi sông ta…”.
Ruộng, gò… là hình ảnh quê hương đất nước. Những tên núi, sông, làng, bản, ruộng, gò, v.v… ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang “một hình bóng, một ước vọng, một lối sống của người cha”. Hình ảnh đất nước còn là tâm hồn, phong cách, ước mơ của cha ông ta, của cha ông ta bốn ngàn năm lịch sử. “Đời đã hóa núi sông ta” là câu thơ rất hay và đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Từ “một” được lặp lại 3 lần, từ “ta” được lặp lại 2 lần kết hợp từ cảm thán tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, thiết tha, say đắm và tràn đầy cảm xúc tự hào. Vừa bi tráng, vừa hào hùng, vừa thiết tha lắng đọng, vẻ đẹp nhân văn thấm đượm trong những dòng thơ hào hùng. Tầm vóc của Đất nước, của dân tộc hiện diện sâu rộng, không chỉ trong phạm vi địa lý “mênh mông”, mà còn trong dòng chảy thời gian, “rộng rãi” lịch sử bốn nghìn năm.
Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài Đất Nước. Đoạn thơ mở rộng giàu chất văn xuôi, Chính tố và chữ tình, chất cảm hòa quyện, làm cho lời thơ phong phú, ý sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, con người anh hùng, cần cù, hiếu học, thủy chung son sắc… được nhà thơ cảm nhận bằng tất cả niềm tin yêu, tự hào.
Chất liệu văn học dân gian được tác giả vận dụng một cách sáng tạo. Thông qua hình ảnh Đất Nước, nhà thơ ca ngợi tâm hồn của Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh hiên ngang của giống nòi Việt Nam. Bản Chất Đất Nước do Nhân Dân tạo dựng nên. Nhân Dân là người làm chủ Đất Nước.
Thơ chân chính khơi gợi tâm hồn trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng “ngọt ngào” tình cảm, nhà thơ như đang trò chuyện cùng ta về Đất nước và Con người. Đọc lại bài thơ, mỗi chúng ta đều xúc động, nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân yêu:
“Ôi! Việt Nam! Tình yêu trọn đời…”
(Tố Hữu)
Tôi cảm thấy tự hào và lớn lên cùng Đất Nước.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 luyện thi THPT Quốc gia:
data-nuoc.jsp
Các bộ đề lớp 12 khác
Bạn thấy bài viết Phân tích đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất bên dưới để Trường THPT Kiến Thụy có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thptphandinhphung.edu.vn của Trường THPT Kiến Thụy
Nhớ để nguồn bài viết này: Phân tích đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất của website thptphandinhphung.edu.vn
Chuyên mục: Văn học